Nhà nguyện và một dãy nhà bệnh viện của Pháp nằm trong khuôn viên thành Điện Hải xưa.
Thứ Ba, 5 tháng 10, 2021
Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2021
CÔNG TRÌNH GIẢNG DẠY PHẬT PHÁP CỦA THẦY THIỆN CHÂU
Trịnh Đình Hỷ
Tôi xin phép được chia sẻ với quí vị một số nhận xét và cảm
nghĩ về công trình giảng dạy về Phật pháp của Thầy Thiện Châu, trong khoảng thời
gian 32 năm, từ 1966 tới 1998, tại Âu châu.
Vào những năm 1960, chỉ có một số ít tăng sĩ VN được đi du học
và giảng dạy ở nước ngoài. Trong số đó có Thầy Minh Châu, đi du học tại Sri
Lanka rồi Ấn Độ, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Nalanda, sau trở về
Sàigòn thành lập Viện ĐH Vạn Hạnh, rồi Viện Nghiên cứu Phật học VN. Thầy Thiện
Châu, đi du học tại Nalanda, London và tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học và Văn
chương tại Đại học Paris Sorbonne. Thầy Nhất Hạnh, giảng dạy tại các Đại học
Princeton và Columbia, Hoa Kỳ, sau về gần Bergerac, Pháp, phát triển dòng Tiếp
hiệnLàng Mai.
Nhờ kinh nghiệm tu học ở nước ngoài mang lại một cái nhìn lịch
sử và chính xác hơn về đạo Phật, cho nên cả ba Thầy đều ý thức được sự cần thiết
chấn hưng Phật giáo, trở về với giáo lý cội nguồn, đồng thời hiện đại hóa đạo
Phật, thay vì thu mình trong các nghi lễ tín ngưỡng cổ truyền. Thầy Minh Châu bằng
cách nâng cao ngành giáo dục PG qua sự phát triển viện ĐH Vạn Hạnh và các viện
Phật học; Thầy Thiện Châu bằng cách xiển dương một đạo Phật trung thực, giản dị,
dễ hiểu cho các Phật tử tại Âu châu; Thầy Nhất Hạnh bằng cách phổ biến rộng rãi
phương pháp " chánh niệm ", nhằm chuyển hóa tâm thức mỗi người, trong
đời sống hàng ngày.
Trong những năm 60, ngoại trừ một vài huynh trưởng Phật tử
đã từng hoạt động tại VN, đa số chúng tôi là những sinh viên mới sang du học tại
Pháp, Đức, Thụy Sĩ hoặc Bỉ, ngây thơ chẳng biết gì về đạo Phật. Đạo Phật của
chúng tôi thực tình đã được khai sáng bởi các Thầy, và đặc biệt Thầy Thiện
Châu, là người hướng dẫn và thành lập nên Liên đoàn SVPT Âu châu, Hội PTVN tại
Pháp và Trúc Lâm Thiền viện.
Điều đầu tiên mà Thầy dạy cho chúng tôi và tất cả những ai
muốn tìm hiểu về đạo Phật, là đạo Phật là một con đường trí tuệ, dựa lên sự hiểu
biết và thực hành con đường vạch ra bởi đức Phật. Và đức Phật là một người Thầy,
đã tìm ra, chứng nghiệm và chỉ dạy con đường đó cho tất cả những ai muốn đi
theo ngài. Con đường đó là con đường chánh 8 nẻo, với 3 môn học " giới, định,
huệ ", nhằm giải thoát khỏi khổ đau, tiêu tan phiền não, lậu hoặc và đem lại
thanh tịnh, an lạc.
Khác với các tôn giáo thần khải như Ấn Độ giáo, Ky Tô giáo,
Hồi giáo, đạo Phật không cần đến đức tin. Đúng hơn, người Phật tử tin tưởng (tiếng
pali gọi là saddhā) nơi con đường và người dẫn đường, chứ không phải sùng tín
(pali là bhakti) Thượng Đế, các thần linh, hay một thế lực siêu nhiên nào. Trong
tinh thần đó, Thầy nhắc nhở cho chúng tôi lời Phật dạy trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn pali: " Hãy tự mình là hòn đảo, là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự
mình nương tựa vào chính mình, chớ nương tựa vào một nơi nào khác ". Và
trong Kinh Pháp Cú (1): " Hãy tự mình cố gắng, Như Lai chỉ là thầy (câu
276). " Tự mình làm điều ác, Tự mình sanh nhiễm ô, Tự mình không làm ác, Tự
mình thanh tịnh mình. Tịnh hay không, do mình, Không ai thanh tịnh ai.
"(câu 165).
Như vậy, điều cốt yếu phải hiểu là: đạo Phật là một con đường
giải thoát; nhưng không phải giải thoát bởi một thế lực bên ngoài, mà là giải
thoát bởi chính mình, tự mình giải thoát, tự mình giải phóng khỏi những ràng buộc
do mình tạo nên. Vào thế kỷ thứ 5- thứ 6 trước CN tại Ấn Độ thời bấy giờ, thống
trị bởi truyền thống Veda vàđạo Bà La Môn, đạo Phật xuất hiện như một tư tưởng
hoàn toàn mới mẻ và cách mạng, đặt con người trước trách nhiệm của mình, và đặt
tin tưởng nơi con người.
Có hai bài giảng của đức Phật mà Thầy thường kể lại, gây nên
một ấn tượng sâu sắc cho chúng tôi: đó là ẩn dụ "mũi tên độc", và lời
dạy của đức Phật cho dân làng Kalama.
Khi Malunkyaputta(2), một đệ tử hỏi ngài tại sao không trả lời
về các câu hỏi siêu hình như " vũ trụ hữu hạn hay vô hạn trong không gian
và thời gian, Như Lai sau khi chết có còn hay không, và linh hồn và thể xác là
một hay khác nhau ", thì ngài lấy thí dụ của một kẻ bị bắn một mũi tên độc,
không chịu cho chữa chạy nếu không được biết mũi tên bắn từ đâu, với cây cung
làm bằng gỗ nào, người bắn tên là ai, vì lý do nào lại bắn, v.v., thì người đó
chắc chắn sẽ chết trước khi nhận được các câu trả lời. Đức Phật luôn luôn gạt bỏ
những câu hỏi siêu hình, không những không thể trả lời được, mà chỉ làm mất thời
giờ, không ích lợi gì cho sự giải thoát.
Còn đối với người dân làng Kalama (3), thắc mắc không biết
nên tin vào lời thuyết giảng của ai, thì đức Phật dạy: "Này các vị Kalama,
các vị đừng tin vì nghe lời truyền khẩu, đồn đại, đừng tin vì đó là truyền thống,
được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, suy diễn, đừng tin vì hợp với định
kiến, đừng tin vì vẻ có uy quyền, đừng tin vì đó là lời thầy mình. Nhưng khi
nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này bất thiện; các điều này đáng chê; các
điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau', thì các
vị hãy từ bỏ chúng. Khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này là thiện; các
điều này đáng khen; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến an
lạc, hạnh phúc', thì các vị hãy dựa vào chúng". Trong suốt lịch sử tư tưởng
nhân loại, chỉ có đức Phật mới nói lên điều đó: đừng vội tin ngay cả vào ta, vị
thầy của các người, nhưng hãy tự mình kiểm chứng!
Hai bài học này tỏ rõ tinh thần phê phán, thực tiễn và thực
nghiệm của đạo Phật. Nói theo danh từ triết học Tây phương, thì đạo Phật là một
hiện tượng học (phénoménologie), chứ không phải là một bản thể học (ontologie).
Đức Phật chỉ đặt trọng tâm vào một hiện tượng, là hiện tượng khổ, cũng như lời
ngài nói trong Kinh Trung Bộ(4): " Như Lai chỉ dạy một điều: sự khổ đau và
sự chấm dứt khổ đau " và trong Kinh Phật Tự Thuyết(5): " Cũng như nước
các đại dương chỉ có một vị mặn, Giáo pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát
".
Vì đạo Phật là một con đường trí tuệ, cho nên Thầy chủ
trương bài trừ mê tín, dị đoan, bói toán, bùa phép, đồng bóng, tin vào linh hồn,
ma quỷ, là những truyền thống dân gian lạc hậu, không liên quan gì đến đạo Phật.
Thầy giải thích " cầu siêu " chính là " cầu an " cho gia
đình tang quyến, nhằm xoa dịu nỗi thương đau và mang lại an tĩnh cho những người
còn lại.
Nghi lễ tụng niệm chính là dịp để người Phật tử hiểu rõ hơn
về đạo Phật, vì thế cho nên Thầy chủ trương tụng niệm bằng tiếng Việt, thay vì
tiếng Hán do ảnh hưởng lâu đời của Trung quốc, và đọc những bài Kinh căn bản, dễ
hiểu, như các Kinh Chuyển Pháp Luân, Vô Ngã Tướng, Từ Bi, Chơn Hạnh phúc, và đặc
biệt Kinh Pháp Cú (1),với những câu kệ giản dị, dễ hiểu, và gần nhất với lời Phật
dạy. Chẳng hạn như câu: " Dầu tụng trăm câu kệ, Nhưng không có lợi ích, Chẳng
bằng một câu Pháp, Nghe xong được tịnh lạc "(câu 102).
Đa số kinh Thầy trích giảng là thuộc Bộ Kinh (Nikaya) hệ
pali, cho nên có người đặt câu hỏi là tại sao đạo Phật VN chủ yếu là Ðại Thừa,
mà Thầy lại có vẻ theo Tiểu Thừa (hay là Nguyên Thủy) hơn?
Trong bài " Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật
Giáo Việt Nam " (6), trình bày trong một Hội thảo năm 1996, Thầy có nói :
" Chúng ta quan niệm đạo Phật là một cây lớn; chúng ta không chia phần gốc
là quan trọng, hay phần cành là quan trọng.(…) Vì vậy chúng ta không phân biệt
Ðại thừa, Tiểu thừa, ngay cả Nhất thừa, cho đến Tối Thượng thừa chúng ta cũng
không nói đến; chỉ nhắc đến giáo pháp của Phật là phương pháp đạo lý để giải
thoát và giác ngộ, tùy theo căn cơ mình tu tập. "
Tuy nhiên, trong bài giới thiệu " Kinh Sa môn Chơn
chánh " (7), thuộc " Tiểu Bộ Kinh ", Thầy cho rằng quan điểm
" ngũ thời bát giáo ", phân chia lời Phật dạy ra làm 5 thời kỳ (Hoa
Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn) của một cổ đức Trung
quốc (tức là ngài Trí Giả) " không phù hợp với lịch sử tư tưởng Phật giáo
và nhất là hoàn toàn sai với lịch trình thuyết pháp của Phật... Sự sai lầm lớn
nhất là xem nội dung A Hàm là thấp kém (gọi là Tiểu thừa), và nội dung Pháp
Hoa, Niết Bàn, là cao nhất (gọi là Tối Thượng thừa) ".
Thầy còn tiếp: " Các cổ đức Trung quốc là những bậc lão
thông kinh điển, nhất là kinh điển phát triển Ðại Thừa, song rất thiếu sót về
quan niệm lịch sử, nhất là lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ. (…) Chúng ta không có gì để
phiền trách các vị cổ đức. Ðiều đáng phê bình là các học giả Phật học sau này,
Trung quốc cũng như Việt Nam, sau khi đã tiếp xúc với Ấn Ðộ và Phật giáo Nguyên
thủy, vẫn còn duy trì những sự hiểu biết cổ kính sai lầm như cách phán giáo ấy.
Quan niệm lệch lạc về lịch sử tư tưởng Phật giáo này đã gây
nên hậu quả nguy hiểm là khinh rẻ giáo lý căn bản do chính Phật thuyết trong 45
năm, trái lại ham chuộng kinh điển phát triển về sau. Thậm chí, có những tôn
phái chủ trương chỉ đọc tụng một bộ Kinh Pháp Hoa hay chỉ cần (...) tụng niệm
câu "Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" là cũng đủ thành Phật! (…) Như
thế, đối với chúng ta, tất cả gia tài giáo lý mà chúng ta có được đều là vô
giá, song điều cần thiết khi đọc kinh là phân biệt kinh nào là kinh Phật, kinh
nào là kinh Tổ. "
Thầy cũng giải thích tại sao Thầy đặt trọng tâm vào đức Phật
Thích Ca: " Nhiều khi quá khoan hòa chúng ta quên mất ý niệm lịch sử; vì vậy,
có nhiều người đi chùa mà không biết Phật là ai, ai là người lập ra đạo Phật.
Có Nam mô Phật, có Nam mô A Di Ðà Phật, có Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật,...
nhưng quên mất và cũng không hiểu rõ rằng người sáng lập ra đạo Phật là đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni.(…) Trong thời đại khoa học này, chúng ta phải tập trung làm
sáng tỏ đức Bổn sư của chúng ta, vì đức Bổn Sư quá đẹp, quá cao, quá siêu việt.
Chúng ta có thể thờ tất cả các vị Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng đừng
để những đức tánh của các vị Bồ Tát hay hình tượng các ngài che lấp ánh sáng đức
Bụt của chúng ta.(…) Trong Phật giáo bây giờ có hiện tượng là nhiều khi có chùa
mà không thờ Phật, hoặc thờ Phật mà không được rõ ràng, không được chú tâm tới
đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, cũng đừng lấy làm lạ khi có người nghi
ngờ tôi không phải là tu sĩ, người ta tới chùa không thấy tôi niệm A Di Ðà Phật.
Tôi biết đức Phật A Di Ðà rất quý, rất đẹp, là một nơi cho nhiều người quy hướng,
nhất là về tuổi già và hy vọng cho đời sau. Nhưng tôi không niệm A Di Ðà Phật
vì tôi muốn cố ý làm cho đức Bổn Sư lịch sử, cũng như hình tượng ngài được nổi
lên rõ ràng, để chúng ta theo đó mà tu hành. "
Để trả lời lá thư một Phật tử (8) đặt câu hỏi tại sao lại tụng
kinh Chơn Hạnh Phúc, kinh Từ Bi mà không tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Thầy viết
như sau: " Tôi xin nói rõ rằng tôi không hề ngăn trở việc tụng các kinh
này, nhưng tôi chỉ khuyến khích những người nào hiểu nghĩa và quen tụng các
kinh nầy nên tụng riêng ở nhà. Không cần nói đến tính cách tông phái của nó:
kinh A Di Ðà thích hợp với người theo tông Tịnh Ðộ, kinh Phổ Môn thích hợp cho
những người tin tưởng Bồ Tát Quan Âm (…) Trong khi đó, kinh Chơn Hạnh Phúc và
kinh Từ Bi là những kinh ngắn, hay, căn bản cho tất cả Phật tử và cũng là những
kinh do chính đức Phật đã nói ra. "
Còn về câu hỏi tại sao Thầy lại cho tụng Ba qui y, Năm giới
bằng tiếng pali mà không tụng chú Ðại bi, chú Chuẩn đề như ai cũng làm bên nhà,
thì Thầy trả lời: " Sở dĩ Phật tử bên nầy tụng Ba qui y, Năm giới là vì
chính Hội Phật giáo Liên hữu Quốc tế đã quyết định: "Phật tử nên tụng Ba
qui y, Năm giới trước các buổi lễ Phật và các cuộc hội họp". Và họ tụng bằng
tiếng pali là để gây tinh thần đồng nhất không những giữa các Phật tử Nam Tông,
Bắc Tông Việt Nam mà cả giữa các Phật tử Pháp, Đức, Anh, Lào, Miến Điện, Tích
Lan, v.v. Ba qui y, Năm giới là những điều căn bản mà bất cứ Phật tử ở nơi nào,
thuộc tông phái nào, cũng đều phải biết. Còn các bài thần chú chỉ có người Phật
tử theo Mật tông mới tụng mà thôi. Ðó là không nói đến điều không chính xác do
sự phiên âm từ tiếng Phạn sang tiếng Hán và được đọc ra bằng tiếng Việt. Hơn nữa
các bài chú nầy không thể giảng nghĩa. "
Trong sự tu tập, thiền định đối với Thầy rất quan trọng, vì
đó là một trong ba môn học để đánh tan lậu hoặc. Cũng như trong Kinh Pháp Cú có
câu: "Không có tuệ, không định.
Không có định, không tuệ. Người có định, có tuệ, Đạt Niết bàn viên tịnh
"(câu 372). Thầy thường khuyến khích tất cả mọi người nên thực hành thiền
định đều đặn, theo lời dạy của đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ hay Kinh Niệm Hơi
Thở. Và đặc biệt đối với chúng tôi, các trí thức Phật tử có khuynh hướng học Phật
trong sách vở hơn là thực hành. Bao nhiêu năm đã qua, nhưng kỷ niệm của các buổi
ngồi thiền, sáng sớm trên cánh đồng ở các trại hè, vẫn còn sâu đậm trong ký ức
của chúng tôi. Sau này, nhờ các tiến bộ đột phá của khoa học thần kinh và các
áp dụng y khoa của thiền chánh niệm (mindfulness), thiền định đã trở thành một
phương pháp tập luyện tâm-thân (mind-body) được hưởng ứng mạnh mẽ trong xã hội
Tây phương hiện đại.
Nói tóm lại, Thầy Thiện Châu trong suốt cuộc đời hoằng pháp
của Thầy, đã xiển dương một đạo Phật chân thực, thuần túy, trung thành với lời
dạy của đức Phật Thích Ca. Một đạo Phật không hoa mỹ, hào nhoáng, nhưng trong
sáng, giản dị, dễ hiểu, có thể áp dụng được bởi tất cả những ai đi tìm một giá
trị tâm linh, một triết lý sống, một nền đạo đức, một tâm lý trị liệu, làm cho
tâm thức bớt phiền não, thêm an lạc và hạnh phúc.
Cuối cùng, bài học của Thầy cũng chính là tác phong của Thầy,
một con người bình dị, khiêm cung, gần gũi với mọi người, với lời nói nhẹ nhàng
và nụ cười hiền hậu. Trong các bài thơ làm trên sườn đồi Trúc Lâm Villebon, Thầy
tự ký tên là " người làm vườn ". Chẳng hạn như trong bài " Mai
am ":
" Sương núi phủ am lạnh,
Nhạc nước vẫn reo đều,
Sư già vui tĩnh tọa,
Trên đồi chim, sóc kêu. "
Hình ảnh và tấm gương của Thầy Thiện Châu, một vị chân tu,
trí tuệ trong sáng và đức độ cao dày, vẫn còn phảng phất đâu đây. Mặc dù Thầy
đã đi qua, và các đệ tử của Thầy cũng lần lượt đi qua, nhưng các lời dạy thấm
thía của Thầy còn vang vọng mãi trên sườn đồi Trúc Lâm.
Để tưởng nhớ đến Thầy, xin chúng ta cùng nhau đọc câu đảnh lễ
đức Thế tôn bằng tiếng pali, như Thầy thường đọc :
Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa !
Kính lễ đức Thế tôn, bậc giải thoát, giác ngộ hoàn toàn!
Trịnh Đình Hỷ,
Pháp danh Nguyên Phước
Tài liệu trích dẫn
(1). Kinh Pháp Cú (Dhammapada), thuộc Tiểu Bộ
(Khuddaka-nikaya)
Hiểu đạo Phật một cách giản dị bằng Kinh Pháp Cú
(Dhammapada) Trịnh Nguyên Phước, Nguyên Đạo :
http://www.truclamthienvien.fr/index.php/tailieu/115-kinhphapcu
(2). Tiểu kinh Malunkya (Cula-malunkya sutta), thuộc Trung Bộ
(Majjhima-nikaya, 63)
Thích Minh Châu dịch :
http://cusi.free.fr/dtk/trungbo/trung063.htm
(3). Kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara-nikaya, I,
188-193)
Thích Thiện Châu, Kinh Kalama :
http://cusi.free.fr/gtk/gtk0054.htm
(4). Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikaya, I, 140, 22)
(5). Kinh Phật Tự Thuyết (Udana, 67)
TRÍ THỨC VÀ SỰ THẬT:
Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021
NGÃ BA CẨM HẢI
Thứ Hai, 27 tháng 9, 2021
LIÊN GIA
Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021
TRƯỜNG NỮ TIỂU HỌC HỘI AN THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HOÀ
Thứ Sáu, 10 tháng 9, 2021
CHÙA THANH MINH HỘI AN
Trước đây đã có bài về Nghĩa trũng Hoa kiều và đài liệt sĩ Hoa kiều kháng Nhật. Còn thiếu Đền Thanh Minh mà người Hội An quen gọi là… chùa Thanh Minh.
Thứ Tư, 8 tháng 9, 2021
MIẾU XƯA NGƯỜI HOA ĐẤT TRƯỜNG LỆ HỘI AN
Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2021