Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019

CHÙA VIÊN GIÁC HỘI AN.

Xã Cẩm Phô ngày trước có 3 ấp và 3 thôn. Ba ấp là: Tu Lễ, Xuân Lâm, Xuân Mỹ nằm bên này sông Thu Bồn, gọi là Cẩm Phô Phường và 3 thôn là: Xuyên Trung, Châu Trung (Xuyên Trung, Châu Trung sau gộp chung), Hà Trung và Thanh Nam (Nam Ngạn) nằm bên kia sông, gọi là Cẩm Phô Xã, đến năm 1956 có tên mới là Cẩm Nam.
Đất Cẩm Nam được hình thành từ những năm cận kề 1700. Địa đầu phía tây đất này có tên là Xuyên Trung, ngày trước gọi là cồn chùa vì nơi đây từng có một ngôi chùa Phật của làng Cẩm Phô với tên là Cẩm Lý Tự.
(Di chỉ quả chuông xưa của chùa được khắc với lạc khoảng như sau: “Gia Long thập tam niên, tuế thứ Giáp Tuất mạnh hạ nguyệt kiết nhật kỉnh lập” và “Linh Miễu tộc Đông phái đồng tạo chung phụng cúng Cẩm Lý tự”).
Người dân Cẩm Nam thường gọi chùa Cẩm Lý là chùa Xuyên Trung hay Xuyên Trung Tự.
Cồn đất này bị xâm thực dần, từ những năm 1800 đến thời vua Thiệu Trị. Và vì thế, dân làng Cẩm Phô đã di dời ảnh, tượng, bài vị, văn chỉ, tự khí của chùa đến một ngôi chùa khác cũng của làng Cẩm Phô, kề ranh giới làng Thanh Hà.
Ngôi chùa này vì là chùa của làng nên không có chư tăng. Tuy nhiên về sau lại được một số người mộ Phật lập nên một phổ gọi là Phổ Địa Tạng, một hội gồm những người sống gần chùa (sau này mở rộng cho mọi người ở Hội An) có nhiệm vụ chăm lo hương khói cửa Phật. Đứng đầu phổ này là ông Trần Đắc Tài, ông vừa giỏi chữ Nho được thăng hàm Bát phẩm, vừa giỏi chữ Pháp làm đến chức Đội.
Còn người trông coi chùa là ông Phạm Kim Cái, tục gọi là ông thầy Mười (ông là thầy dạy chữ Nho). Người con út của ông là hòa thượng Thích Như Huệ, nguyên trụ trì chùa Giáo Hội (Pháp Bảo).
Nhưng theo gia phả của hai tộc Lý ở Hội An (triều Châu và Phước Kiến)…
“Tại Thanh Hà, thời đó đã có một ngôi miếu lớn do các vị tiền bối qua trước tạo lập từ năm 1626 (nhằm vào năm Bính Dần, đời HY TÔNG HIẾU VĂN HOÀNG ĐẾ - Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, tức triều Minh vua Thiên Khải thứ 6) xây dựng giữa ranh giới hai xã Cẩm Phô và Thanh Hà nên đặt tên là Cẩm Hà Cung.”
Chùa Phật này có khả năng là nền của Cẩm Hà Cung xưa, bởi vì sát đất chùa là đất của Hậu Xá xứ, thôn cuối cùng phía đông-bắc của xã Thanh Hà. Hơn nữa, cách đây gần một trăm năm danh xưng “Chùa Khách” còn truyền lại đến sau này mặc dù lúc đó xã Cẩm Phô đã di dời XUYÊN TRUNG TỰ từ Cẩm Nam về đây.
Mặc khác, theo tìm hiểu và khảo sát của các nhà khảo cổ trên các phiến đá tại chùa, có đường nét hoa văn họa tiết thời Lê, thì có thể khẳng định rằng: miếu, sau này là chùa được thành lập vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Xuyên Trung cổ tự được dời về địa điểm này vào năm Thiệu Trị nguyên niên (1841). Bia công đức còn lưu giữ đến ngày nay ghi:
“Tuế thứ Nhâm Dần mạnh đông nguyệt thượng hoán cốc nhựt chú”
(Ngày lúa thượng tuần tháng chín năm Nhâm Dần 1842 khắc)
Và xà cò chùa còn ghi rõ:
“Thiệu trị nguyên niên, tuế thứ Tân Sửu trọng hạ nguyệt kiết nhật Cẩm Phô xã viên chức bổn xã tịnh Đông Tây nhị phái đồng trùng tạo”. Nghĩa là vào ngày tốt tháng 6 năm Thiệu Trị thứ nhất, Tân Sửu (1841) viên chức xã Cẩm Phô cùng với hai phái Đông Tây cùng trùng tu tái tạo.
Chùa sau này đổi tên là VIÊN GIÁC TỰ và về sau, chùa được hương lý cùng dân làng Cẩm Phô trùng tu hai lần, lần thứ nhất vào năm Thành Thái nguyên niên, Kỷ Sửu (1889); lần thứ hai vào năm Bảo Đại thứ 11, Bính Tý (1936) nhưng cũng chỉ có chánh điện và cổng tam quan.
Sự sinh hoạt của chùa lúc bấy giờ cũng chỉ mở cửa theo lệ Tam Ngươn Tứ Quý, còn lại thì đóng cửa quanh năm. Đến năm Bính Tuất (1946), thân hào xã Cẩm Phô mới sắm lễ ra tổ đình Chúc Thánh thưa đức Tăng cang Thích Thiện Quả cho thỉnh một thầy về làm giám tự. Ban đầu là thầy Như Đương (tức thầy Mười), kế đến là thầy Như Hảo (tức thầy Chất) được cử về trông coi chùa Viên Giác. Nhưng do tuổi già sức yếu lại không có phương tiện cũng như còn lệ thuộc vào làng nên hai thầy không thể tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo. Chính vì thế mà những hoạt động của chùa qua nhiều năm dường như không phát triển. Sau khi nhiều lần hội họp, bàn bạc thảo luận nghiên cứu, thân hào đi đến kết luận: sở dĩ ngôi chùa không phát triển được là do không nằm trong hệ thống Giáo Hội Phật Giáo. Do đó, thân hào và nhân dân của xã đồng tâm cúng chùa Viên Giác cho Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà Nẵng. Vào tháng 6 năm Kỷ Sửu (1949), Giáo Hội làm lễ tiếp nhận và đề cử Đại Đức Thích Long Trí về làm Tự trưởng và chính thức trụ trì vào năm 1951.
Từ khi chính thức trụ trì, Đại đức Thích Long Trí từng bước xây dựng lại ngôi chùa đang đi vào tình trạng xuống cấp. Đầu tiên, Đại Đức thống nhất khu vực đất của chùa. Bởi chùa lúc trước bị bỏ hoang nên những nhà lân cận đã chiếm dụng để canh tác trồng trọt. Hơn nữa, lại có một con đường băng ngang cắt rời chánh điện và cổng tam quan nên Đại đức đã từng bước vận động bà con trả đất lại cho chùa và rào lại khuôn viên bổn tự như ngày hôm nay. Thứ đến, Đại Đức bắt đầu tu bổ chánh điện cũng như bố trí lại sự thờ tự cho đúng nghĩa một ngôi chùa Phật giáo (Vì trước đây là chùa làng nên việc thờ tự có phần lẫn lộn giữa Nho-Lão-Thích). Mãi đến năm Nhâm Dần (1950) thì các công việc trên mới được hoàn thành.
Và từ đó, nơi đây đã trở thành trụ sở của Gia đình Phật tử Quảng Nam và cũng thăng trầm theo lịch sử dân tộc. Đặc biệt trong các lần pháp nạn 1963, 1966, chùa là trung tâm đấu tranh bảo vệ tự do tín ngưỡng cũng như độc lập chủ quyền đất nước. Các vị Thánh tử đạo: Lê Đình Linh, Nguyễn Cúc, Nguyễn Dần, Văn Bá Hoành, Phạm Hữu Diện, Phạm Hữu Nghiệp v.v...đã nằm xuống để đạo pháp được trường tồn. Không những thế, đây cũng chính là trung tâm từ thiện cho phong trào Mặt trận cứu đói Miền Trung khi chiến tranh Việt-Mỹ cao độ vào năm 1972. Ngoài ra, Ngài đã xây dựng một hệ thống các chùa sinh hoạt gắn bó với chùa Viên Giác qua những Phật sự tại các huyện thị. Từ chùa Viên Giác, Cố Hòa thượng đã đào tạo được một số vị đệ tử hữu danh như: Cố Hòa thượng Thích Tâm Thanh, khai sơn Vĩnh Minh Tự Viện, Lâm Đồng; Hòa thượng Thích Như Điển, khai sơn chùa Viên Giác tại Đức v.v...
Năm 1980, Thượng tọa Thích Như Huệ sang Úc hoằng pháp nên Thượng tọa Thích Long Trí về trụ trì tại Pháp Bảo để tiện việc điều hành Giáo hội. Do đó, mọi sinh hoạt của chùa Viên Giác gần như gián đoạn. Đến năm 1990, Hòa thượng Thích Long Trí về lại Viên Giác trùng tu bổn tự và lễ khánh thành được tổ chức vào rằm tháng 8 cùng năm. Từ đây, Hòa thượng trực tiếp điều hành Phật sự tại Viên Giác cho đến ngày viên tịch 13 tháng 9 năm Mậu Dần (1998). Qua đó cho thấy, gần 50 năm gắn bó với chùa Viên Giác, cố Hòa thượng Thích Long Trí đã đưa chùa Viên Giác vào trong lòng Phật giáo Quảng Nam. Ngài đã biến một ngôi chùa làng thành một ngôi Phạm vũ có tầm vóc và vị thế đặc biệt quan trọng trong lịch sử Phật giáo đất Quảng.
Cũng nên kể thêm:
Năm Quý Tỵ (1953), nhận thấy con em chung quanh chùa không có điều kiện để theo học tại các trường công, Đại đức trụ trì xây dựng trường tiểu học Khai Trí ở phía Đông chùa để tạo điều kiện cho con em được học hành.
Năm Nhâm Tý (1972), san lấp hai ao nước trước chùa với mục đích xây dựng trường Bồ đề nhưng chưa thực hiện thì hòa bình lập lại, rồi sau đó, khoảng năm 1978, nơi này lại biến thành cái chợ... trước chùa còn mãi đến bây giờ.
Mỗi ngôi chùa ra đời trong một hoàn cảnh và tùy theo bối cảnh thực tiễn mà đóng góp vào công cuộc xây dựng xã hội ngày một hoàn thiện hơn. Chùa Viên Giác cũng thế, trải qua suốt chiều dài gần 200 năm có mặt và trên 50 năm sinh hoạt trong ngôi nhà Phật giáo đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển và sự trường tồn của Đạo pháp và Dân tộc.
Các đời Trụ Trì:
STT Đạo hiệu Năm sinh và tịch Năm trụ trì
1 Hương hào xã Cẩm Phô 1841 - 1949
2 Chơn Ngọc Đạo Bảo Long Trí 1928 - 1998 1949 - 1998
3 Như Điển Giải Minh Trí Tâm 1949 1998 - 2003
4 Như Tịnh Giải Nghiêm Viên Bổn 1976 2003 đến nay
Hơn 100 năm, kể từ khi thiên di tái thiết (1841 - 1949), chùa Viên Giác không có Tăng trụ trì. Tất cả đều do hương chức của làng Cẩm Phô quản lý. Nếu có thì cũng chỉ hương khói kinh kệ chứ thực chất không có thẩm quyền để điều hành Phật sự. Từ tháng 6 năm Kỷ Sửu (1949), Hòa thượng Thích Long Trí là vị trụ trì đầu tiên chính thức tại Viên Giác nên cũng được coi như Sơ tổ của chùa vậy. Bởi vì từ Hòa thượng, chùa Viên Giác mới có sự truyền thừa phát triển khắp các nơi trong nước cũng như hải ngoại.
Đồng hành cùng với lịch sử dân tộc, trong các lần pháp nạn, Viên Giác là “cái nôi” của các cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng Tôn giáo và độc lập chủ quyền đất nước. Và cũng là nơi an ủi vỗ về nhân dân trong thời quê hương ly loạn. Vì thế, tìm về lịch sử, niên đại thành lập…cùng những bước thăng trầm mà bậc tiền bối đã qua để truy niệm công đức đạo tâm của tiền nhân, ngõ hầu hậu lai học hỏi tiếp nối.
(Bài viết dựa trên tư liệu cá nhân và trích đoạn tư liệu của thầy Đại Đức Thích Như Tịnh. Ảnh chụp Tam Quan chùa Viên Giác khoảng thập niên 40 thế kỷ trước, không rõ tác giả).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét