Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

 NGƯỜI HOA DỨT ÁO RA ĐI

Việt Nam và Trung Hoa là hai nước có biên giới và văn hóa tương liên tương cận. Đất nước Trung Hoa rộng lớn nhưng chỉ hai vùng đông, nam là phát triển thuận lợi. Từ rất sớm những chiếc hải thuyền của họ đã giong buồm hiện diện trên mặt biển khơi.
Và Việt Nam cũng như vùng Đông Nam Á, càng lệch về phương nam, nắng càng ấm, bờ biển rộng dài là nơi lý tưởng cho những cuộc thiên cư của người Trung Hoa.
Có hai nguyên nhân chính cho các cuộc di dân:
Một là: Di dân do nguyên nhân kinh tế diễn ra với những cuộc hải trình do Trịnh Hòa (1371-1433), nhà hàng hải trứ danh Trung Hoa khởi xướng.
Hai là: Di dân để tỵ nạn chính trị qua các cuộc tương tranh đế nghiệp. Tiêu biểu là cuộc di dân quy mô lớn khi Minh triều bại vong vào khoảng năm 1650. Thần dân Minh triều không chấp nhận đế chế Mãn Thanh mà họ cho người Mãn Châu là rợ, đã dứt áo rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn phiêu dạt xuống miền nam xa xôi trên những chiếc thuyền buồm đơn sơ trước phong ba bão dữ với lời nguyền "KHU MÃN PHỤC MINH".
Ngoài ra cũng kể thêm, trong giai đoạn Thanh triều hưng thịnh cho đến trước cách mạng Tân Hợi (1911) cũng có những đợt di dân nhỏ lẽ nhưng liên tục vì sự thất bại nhục nhã của cuộc chiến tranh nha phiến (1840-1842 và 1857-1860) hay sự điêu linh của Trung-Nhật chiến tranh (1894-1895) cộng với việc liên minh tám nước kéo vào cướp phá Bắc Kinh mà người dân hai tỉnh Phước Kiến, Quảng Đông cùng ồ ạt rời bỏ quê hương mình.
Ra đi còn nhiều lý do khác nhau như ông Hồ Dzếnh (Hà Triệu Anh), một người Minh Hương chính hiệu kể về cha mình: "Tía tôi là một người Trung Hoa nghèo đói từ bỏ một nước Trung Hoa nghèo đói tìm đường sang Nam Việt tha phương cầu thực...".
Nói chung, Hoa kiều di dân đến làm ăn sinh sống rồi định cư vĩnh viễn tại Việt Nam từ sau năm 1400. Họ đến Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tiên, Huế... Riêng Hội An là cảng thị thời đó sầm uất và giao lưu thuận tiện hơn Hải Phòng, cách xa sự dòm ngó của Hoa triều nên là điểm đến lý tưởng của Hoa thương.
HỘI AN ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU
Từ năm 1437 Hội An đã có một số thương nhân người Hoa sang buôn bán, lúc bấy giờ còn ít người và đời sống thô sơ. Mãi đến năm 1644, thập Lão mới sang Việt Nam. Đó là di thần nhà Minh có họ KHỔNG, NHAN, DƯ, TỪ, CHU, HOÀNG, TRƯƠNG, TRẦN, THÁI, LƯU. Một số khác vào miền Nam cũng thành lập Xã hiệu, nhưng tại Quảng Nam là trước tiên mà Hội An là quy tụ đông hơn hết. Hiện mộ hai vị tiền hiền làng Minh Hương Hội An: ông Khổng Thiên Như nằm trong khuôn viên chùa Phật học và mộ ông Chu Kỳ Sơn táng tại Cẩm Châu Hội An.
Cần nhớ lại trước khi quy tụ về Hội An lập nghiệp, người Hoa khi mới qua tản mát nhiều nơi trên đất Quảng Nam, họ từng có mặt ở Trà My, Tiên Phước, Tam Kỳ, Thăng Bình (Hà Lam), Duy Xuyên (Duy Hải), Điện Bàn, Duy Xuyên (gần Trà Kiệu), Hội An và vùng phụ cận Hội An như Trường Lệ, Bàu Ốc, Trảng Kèo và Cẩm Sa (giữa Điện dương và Điện Nam).
Thời gian sau, nhận thấy Hội An là nơi có nhiều cơ hội làm ăn, họ tiến hành thêm một lần di cư nhỏ nữa nhưng trước tiên họ quy tụ tại vùng đất Thanh Hà tiếp giáp Hội An.


Tại Thanh Hà, thời đó đã có một ngôi miếu lớn do các vị tiền bối qua trước tạo lập từ năm 1626 (nhằm vào năm Bính Dần, đời HY TÔNG HIẾU VĂN HOÀNG ĐẾ- Chúa Nguyễn Phúc Nguyên tức triều Minh vua Thiên Khải thứ 6) xây dựng giữa ranh giới hai xã Cẩm Phô và Thanh Hà nên đặt tên là Cẩm Hà Cung. Cẩm Hà Cung chính nơi bây giờ là chùa Viên Giác tọa lạc, bởi vì sát đất chùa là đất của Hậu Xá xứ, thôn cuối cùng phía đông-bắc của xã Thanh Hà xưa. Hơn nữa, cách đây gần một trăm năm danh xưng CHÙA KHÁCH còn truyền lại đến sau này mặc dù lúc đó xã Cẩm Phô đã di dời XUYÊN TRUNG TỰ từ Cẩm Nam về đây.
Chùa lúc đó có thờ Phật nhưng chưa có tu sĩ Phật giáo, người trông coi chùa là ông thầy Mười (thầy dạy chữ Nho), cha của hòa thượng Thích Như Huệ. Và người đứng đầu phổ ĐỊA TẠNG, một hội gồm những người sống gần chùa (sau này mở rộng cho mọi người ở Hội An) có nhiệm vụ chăm lo hương khói nơi cửa Phật, là ông Trần Đắc Tài, ông vừa giỏi chữ Nho được thăng hàm Bát phẩm, vừa giỏi chữ Pháp làm đến chức Đội.
CẨM HÀ CUNG là ngôi miếu đầu tiên của người Hoa tại Hội An, là tổ đình ban sơ của họ.
Sau này xuống Hội An, với tinh thần NGƯỜI ĐÂU TỔ, THẦN ĐẾN ĐÓ họ dựng thêm ngôi miếu mới đặt tên là CẨM HÀ NHỊ CUNG tức chùa Bà Mụ sau đổi là CẨM HẢI NHỊ CUNG vì lúc này miếu có hai cung: CẨM HÀ CUNG thờ thần BẢO SANH ĐẠI ĐẾ, thờ BÀ MỤ và HẢI BÌNH CUNG thờ bà THIÊN HẬU THÁNH MẪU, gian giữa là TỔ ĐÌNH.
Dưới là ảnh Chùa Viên Giác vào những thập niên 70 của thế kỷ XX

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2020

 TRUNG HOA HỘI QUÁN

Hội quán người Hoa được xây dựng sớm nhất tại Hội An là Trung Hoa Hội Quán, tương truyền được xây dựng vào triều Minh thời vua Thành Hóa (1465-1487), cũng từng gọi là “Giang Triết hội quán”.

Ngay từ thời nhà Đường thì người Triết Giang, Giang Tô đã đến đây buôn bán trao đổi nhưng sau đó thì về chứ không ở lại (Bi ký trong hội quán có ghi). Từ năm 1400 về sau mới có người ở lại.

Ngũ Bang Hội Quán nguyên trước đây hơn 350 năm là chợ sỉ và kho lưu hàng, là nơi buôn bán trao đổi giữa người bản địa (Chiêm Thành) và người ngoại quốc Châu Âu, Á, Trung Đông, Ấn…, đa số là người Hoa. Các hàng hóa trao đổi là gì thì tài liệu có ghi rõ (Tài liệu tiếng Trung).

Khi đó từ Quảng Nam trở vào Bình định người Chiêm Thành vẫn còn nhiều (Qui Nhơn gọi là Tân Châu, Bình Định là Cửu Châu) nên người Việt không dám định cư vì sợ bị giết do có mối tư thù giữa 2 dân tộc nên việc buôn bán, nông nghiệp… đều do người Hoa đảm nhiệm (khoảng 1650 trở về trước).

Căn cứ theo văn bia còn lưu giữ trong hội quán đến bây giờ thì…

“Nhớ lại, hội quán Trung Hoa Hội An, xưa là hội quán Dương Thương. Khởi dựng thời gian nào, do không ghi lại nên khó xác định.”
(Tố, ngã Hội An Trung Hoa hội quán tức tích Dương Thương hội quán dã. Sáng kiến ư hà thời nhân phạp kỷ tải nan dĩ xác định.)

Theo văn bia xưa nhất hiện còn ở đây, lập năm Vĩnh Hựu thứ bảy, Tân Dậu, tạm xác định hội quán này lập trước năm 1741.
(Nội dung văn bia này sẽ đăng lần tới, còn các văn bia khác sẽ đăng thêm trên trang blog, chưa biết khi nào.)

Hội quán đã trải qua 8 lần trùng tu vào các năm: 1855, 1891, 1928, 1958, 1970, 1993, 1994, 1995.

Bước qua tiền đường đến sân rộng rồi đến miếu.
Phương đình trước chánh điện có hoành phi ghi Thiên Hậu Cung. Bên trong, thần vị gian giữa thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Thần vị gian trái (Đông/ Tả) thờ ngài Thần Tài. Thần vị gian phải (Tây/ Hữu) thờ “ Trung Trinh Vệ Quốc” tức 13 liệt sĩ hy sinh kháng Nhật.
Trong điện có 2 mộc bản ghi tiểu sử thánh bà và bản lược ghi xây dựng khám thờ Thánh Mẫu

Phía sau miếu là bảng xi măng khắc di chúc ông Tôn Dật Tiên. Sẽ đăng lần khác cùng với nội dung 2 mộc bản.
Về sự tích Thánh bà có nhiều dị bản và tên 13 liệt sĩ, xuất thân, quê quán, trường hợp hy sinh, đã đăng trên Fb và trong Blog của Soncuongde.

Ảnh do ông Vĩnh Tân (cha) Thái Thiệt Cổ chụp khoảng thập niên 30. Ảnh còn phảng phất cho thấy nơi đây từng là đình bạc (bến neo thuyền) cũng là nơi hội họp của bang chúng ngũ bang. Trong ảnh chưa có nhà vẽ Hồng Hưng của ông Thái Chi Hiên. Xa xưa, sông cận kề với đường Cường Để (Trần Phú) bây giờ.

Người Hội An thường gọi Trung Hoa hội quán là chùa bà, nơi đây có trường Lễ Nghĩa dạy Trung văn. Địa chỉ 64 Trần Phú, ngay ngã ba Trần Phú - Hoàng Văn Thụ, trước đây là Cường Để - Thành Thái.