Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

CẨM NAM - VÙNG ĐẤT CHÂU BỒI (4)
                    Phạm Thúc Hồng
               (Ảnh và chuyển chú: Soncuongde)

CÁC MIẾU THỜ KHỐI PHỐ THANH NAM
Trong quá trình khai canh lập ấp, cư dân Thanh Nam xây dựng nhiều đình, miếu:
Miếu Ngũ Hành (còn gọi Lăng Bà), có cây đa cổ thụ, tọa lạc tại bờ phía Nam, xây dựng vào khoảng thời vua Tự  Đức (1840-1883), đư­ợc trùng tu vào các năm 1913, 1959.
Vào năm 1980, miếu và cây đa cổ thụ bị sụp lở xuống sống, hiện nay không còn dấu vết.
Miếu Ngũ Hành là miếu trung tâm có quy mô lớn nhất làm nơi tổ chức các lễ hội của khu vực dân cư Thanh Nam.
Lăng  Ông (thờ Đức Quan Thánh và Cá Ông):
Toạ lạc tại bờ phía Nam bị lở xuống sông năm 1950.
Miếu ông Đá: Toạ lạc tại bờ phía Nam, phân định ranh giới giũa Hà Trung và Thanh Nam, bị lở xuống sông năm 1964.
Miếu Thổ Thần Thanh Nam: Tọa lạc tại phía Bắc, phân định ranh giới giữa Hà Trung và Thanh Nam.
Lăng Cô, thờ nhân thần.
Tất cả miếu thờ tại Thanh Nam có quy mô rất nhỏ và đư­ợc trùng tu theo quy cách mới, không có văn bia, xà cò, ghi lại dấu tích khỏi dựng ban đầu.
Đây là sự tổn thất văn hóa của một vùng đất vì không có tư­ liệu, vật chứng để phối kiểm mà chủ yếu dựa vào tư­ liệu khẩu truyền.
Theo cổ lệ, từ những năm tr­ước 1975, ấp Thanh Nam có hai kỳ lễ lệ. Tế xuân vào ngày 16.1 âm lịch và tế thu vào ngày 16.8 âm lịch.
Từ chiều tr­ước ngày lễ chính đã có tiếng thanh la vang lên tại miếu Ngũ Hành, các bô lão và trai làng tề tựu. Các cụ cao niên chăm chút lau chùi, quét dọn bàn thờ. Các cụ thầy đồ, thầy thuốc Bắc lụ khụ khom mình trên chiếu trư­ớc chính điện viết văn cúng bằng chữ Nôm. Các trai làng nhanh nhẩu che trại rạp, trang trí. Các bà xúm xít làm bếp cắt gọt thực phẩm thực hiện một phần việc nh­ư có sự phân công chuyên môn hoá tự lúc nào !
Đến bốn giờ chiều đội nhạc cổ bát âm tập trung. Lễ túc trang nghiêm, long trọng đư­ợc cử  hành khởi động một kỳ lễ tế.
Lễ chánh tổ chức vào ngày hôm sau. Cứ th­ường lệ đúng tám giờ sáng xuất phát từ miếu Ngũ Hành có một đoàn ngư­ời theo sự chủ trì của viên chánh tế miếu Thổ Thần, khiêng chiêng trống, nhạc bát âm và các mâm lễ đi đến miếu Thổ Thần dể cử hành lễ cúng. Cúng xong cũng đoàn ngư­ời ấy theo sự chủ trì  của viên chánh tế lăng Cô đến cúng tại lăng Cô.  Sau đó trở về lại miếu Ngũ Hành tiến hành nghi lễ cúng chính thức.
Cờ ngũ sắc lư­ợn lờ nghiêng theo gió. Tiếng chiêng trống âm u lư­ớt qua những cánh đồng lúa vàng. Thần linh và con người hình như gần gũi nhau hơn.

ĐÌNH TIỀN HIỀN THANH NAM
Địa chỉ hiện tại: Khối phố Thanh Nam Đông, phường Cẩm Nam.
I/ QUÁ TRÌNH KIẾN TẠO, TRÙNG TU
Theo khẩu truyền đình Tiền Hiền Thanh Nam được xây dựng vào khoảng thời vua Gia Long 1802- 1820.
Sau thời gian dài đình hư hại nên tu sửa để thờ các cô hồn không nơi n­ương tựa, gọi là miếu âm Linh.
Năm 1968, miếu bị bom đánh sập hoàn toàn. Năm 1970, làng Thanh Nam xây dựng lại miếu theo kiểu dáng như hiện nay. 

 Đình tiền hiền Thanh Nam bên phải, bên trái là lăng cá ông
Năm 1980, do miếu Ngũ Hành (lăng Bà) bị sụp lở nên các vị trưởng lão cao niên đã thỉnh chư thần các lăng miếu bị sụp lở cùng các hoành phi câu đối về thờ tại miếu âm Linh và đổi tên gọi là Đình Tiền Hiền Thanh Nam.
Tại đình Tiền Hiền Thanh Nam có treo hai hoành phi ghi năm Quý Sửu (1913) chứng tỏ các miếu của Thanh Nam đã đư­ợc xây dựng tr­ước thời điểm đó :
Duy Tân năm Quý Sửu (1913), tháng năm
Long Phi, năm Quý Sửu (1913), tháng năm
Lễ tế Tiền Hiền Thanh Nam vào ngày 12.3 âm lịch hàng năm.
BÀI VỊ, CÂU ĐỐI, HOÀNH PHI, CÁC GIAN THỜ  

Gian thờ giữa ghi liễn:
Tiền Hiền Tự Sở
Đúng ra "tự" phải viết : thờ cúng
viết nhầm “tự " là : chùa thờ Phật
Và câu đối hai bên liễn: 
Mộc hữu bổn hoành khai lương đống
Thuỳ do nguyên cơ chỉ quang minh
Cây do gốc, cửa nhà dài rộng
N­ước có nguồn, nền móng sáng tư­ơi
Gian thờ Đông Tả ban và câu đối :
Thập dịch ư dân mị chánh loại
Hồn hề sắc phách dục hà cô
Chánh loại dân ma, đi khắp xứ
Một hồn phách đó, ở nơi đâu?
Gian thờ Tây Hữu ban và câu đối :
Loại dã danh thù ứng thị thập
Cô nhi báo minh thị trung hồn
Thập loại mất tên, còn ứng hiện
Cô hồn còn phách, há không linh?
HOÀNH PHI
Nội thất đinh có treo hai hoành phi được chuyển đến từ miếu Ngũ Hành bị sụp lở:

Hoành phi trước: Huệ đồng nhân 
Duy Tân Quý Sửu, trọng hạ
Ban ơn nhân dân
Duy Tân năm Quý Sửu (1913), tháng năm

Hoành phi sau: Phối nghĩa hưởng
Long Phi, Quý Sửu, trọng hạ
Cùng hưởng việc nghĩa
Long Phi, năm Quý Sửu (1913), tháng năm.
2. CÂU ĐỐI 
Âm dương hữu biệt, tàng năng cách
Linh cảm vô hình, đức thị thân
Âm dương cách biệt, còn cốt cách
Linh cảm không hình, có đức thân
Đúng ra “hình” phải viết là : hình hài
Viết nhầm hình : hình phạt
Thanh bạch vô tư, tiền hậu kỳ ư nhất dã
Nam Đông cộng ngưỡng, cổ kim hà dĩ tiền hô
Thanh sạch vô tư, sau trước một lòng như thế
Nam Đông cùng ngưỡng, xưa nay lệ cũ chẳng thay.

Âm diệc hữu quang, bạch đại hình hài phi phảng phất
Linh nhi bất sảng, thiên thu miếu vũ tráng quy mô
Âm có nắng trời, trăm thuở hình hài không phảng phất
Linh không ánh sáng, ngàn năm miếu tự vẫn quy mô

Ông Đinh Tán, tục danh là Một, 88 tuổi nói:
"Năm Mậu Thân 1968, đình bị phá và cây xà cò cũng thất lạc."
 
MIẾU THỔ THẦN THANH NAM
Địa chỉ hiện tại: Khối phố Thanh Nam Tây, phường Cẩm Nam.
Theo khẩu truyền miếu Thổ Thần Thanh nam đư­ợc xây dựng vào khoảng thời Cảnh Hưng 1740 - 1786. (Trích diễn văn kỷ niệm 300 năm Tiền Hiền làng Thanh Nam – 12.3 Ất Dậu 2005.)
Miếu thờ Thổ Thần gánh thêm chức năng phân định ranh giới giữa Hà Trung và Thanh Nam
Ngôi miếu được trùng tu vào năm 1963 với hình thức như hiện nay: 

Miếu Thổ thần Thanh Nam
Lễ khánh thành trùng tu miếu Thổ Thần tổ chức năm đêm hát bộ. Trước miếu là khoảng đất trống, trải dài những hàng dương liễu còi cọc, sần sùi. Sân khấu ộp ẹp dựng kề sát tường phía Đông của miếu. Diễn viên hát bằng miệng, ít ai nghe rõ, chỉ tiếng trống chầu thập thùng vang xa giục giã. Bọn trẻ con thích ra mặt! Không đú sức lấn đám người lớn chen sâu vào sân khấu, chúng nô đùa ầm ĩ rồi đánh đu trên các cây dương liễu tha hồ thưởng thức các điệu bộ lờ mờ theo ánh đèn măng sông lắc lư hai bên cánh gà. Thanh niên nam nữ được dịp tụm ba, tụm bảy liếc mắt đưa duyên, nói nói, cười cười. Chỉ các cụ cao tuổi chú ý tuồng thôi! Các đêm hát rộn ràng, xôn xao cả vùng quê dân dã.
Vui quá! Mọi người như quên đi sự đe dọa của chiến tranh đang rình rập tràn về xóm nhỏ. Phạm Thúc Hồng là một trong đám trẻ con xem hát bộ khánh thành trùng tu miếu Thổ thần năm 1963.

Bổ sung khán giả trẻ cho các loại hình nghệ thuật dân tộc
Cùng một bọn đi ra, bôi mặt vẽ mày làm kẻ lạ?
Đem chuyện xưa nhắc lại, huơ thương múa kiếm đánh người quen!
                                       Cụ Huỳnh Thúc Kháng vịnh hát bộ
Gian giữa miếu có liễn thờ ghi chữ: Thần
Và bài vị Thái Giám, Bạch Mã, Từ Thanh, Lợi Vật tôn Thần
Hai gian thờ Đông, Tây có liễn thờ ghi Tả Ban - Hữu Ban
Nội thất miếu có câu đối thờ Thổ Thần với hai chữ Thổ, Thần đứng đầu mỗi vế đối.
Thổ phong chi đại hữu
Thần giáng ích nhật nhân
Đất tốt sinh lớn cành
Thần giáng giúp ích người 

LĂNG CÔ THANH NAM
Lăng Cô nhỏ nhắn, nằm khiêm tốn sát bờ sông phía Bắc, thờ một vị nữ nhân thần.
Theo khẩu truyền lăng cô đư­ợc khởi dựng  vào khoảng thời Tự Đức 1840-1883 (trích diễn văn kỷ niệm 300 năm Tiên Hiền Thanh Nam 12.3 Ất Dậu 2005).
Truyền thuyết kể lại sự thành lập lăng Cô cũng giống như những truyền thuyết được lặp đi, lặp lại ở nhiều lăng miếu khác.
Chuyện truyền miệng trong cư dân địa phương kể lại rằng :
Xưa có một thây người phụ nữ bị chết cháy trôi đến khu dân cư Thanh Nam. Người dân bản địa chôn cất chu đáo. Người phụ nữ đã hiển linh phù trì dân chúng làm ăn thịnh vượng.
Người dân nhớ ơn lập lăng thờ, gọi lăng Cô và ghi liễn thờ Nhân thần 

Lăng Cô Thanh Nam

LĂNG VẠN THANH THUẬN
Địa chỉ hiện tại: Khối phố Thanh Nam Đông, xã Cẩm Nam,
C­ư dân ngư­ nghiệp ấp Thanh Nam lập lăng vạn Thanh Thuận vào năm 1970. Đây là lăng thờ "Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn thần", tức là thờ Ông. Hoành phi lăng ghi :
清 順 萬
Thanh Thuận vạn
Vạn Thanh Thuận tổ chức lễ tế vào ngày 22.2 âm lịch hằng năm.
Bên trong hậu tẩm xếp chồng chất hài cốt cá ông mà từ trước đến ng­ư dân bổn vạn bắt gặp từ biển khơi rư­ớc về làm lễ mai táng.
Sau đó đã bốc mộ, mang hài cốt l­ưu  giữ tại lăng
Hậu tẩm chật chội, chất chồng những hài cốt cá Ông. Những chiếc quan tài to nhit đỏ chót cái còn trơ mặt gỗ, kê lởm chởm trên bệ thờ như một nhà mồ. Ô kìa!một xương sườn cá Ông dài hai mét vắt ngang qua cặp trính.
Kính cẩn thắp nén nhang trước hương sán. Làm khói mỏng manh tỏa bay lờ mờ như dắt con người vào thế giới linh nguyên sơ, hoang dã.
Tiếc rằng, cái lăng miếu tại Thanh Nam đều không có văn bia, xà cò hoặc ngôi mộ cổ nào ghi lại thời điểm để xác nhận chứng cứ quá trình tụ dân.
Khầu truyền của các bậc cao niên trải qua nhiều kỳ “tam sao thất bản” chưa đủ độ tin cậy hoàn toàn.
Thanh Nam có bề dày văn hóa, nhưng tiếc thay chứng cứ đã tàn phai theo năm tháng.
Về Thanh Nam, đi tìm quá khứ một thời mở đất, sao cứ thấy một ngọn đèn le lói đằng xa.

NAM NGẠN
VÙNG ĐẤT BÊN  BỜ PHÍA NĂM
Nam Ngạn cách khu trung tâm Cẩm Nam bằng con sông bên lở, bên bồi. Chòng chành trên chiếc đò ngang khoảng 10 phút, vùng đất Nam Ngạn hiện ra xanh um màu cây là bình yên. Nhưng sao hoang vắng đến lạnh người.
Một vùng cư dân nổi tiếng trù phú ngày x­ưa chỉ còn vang bóng. Sông Thu Bồn đang tấn công mạnh mẽ vào vùng đất cố cựu này. Cư­ dân bản địa di dời đến định cư­ tại Thanh Hà để tránh sự càn quét của lũ lụt đến mức địa danh Nam Ngạn đ­ược chính thức nhập vào khối phố Hà Trung kể từ năm 2007.
Dọc hai bên đ­ường hàng chục ngôi nhà tháo dỡ chuyển dời còn trơ gạch vôi xư­ơng xẩu. Tr­ường Tiểu học vắng bóng trẻ thơ, cửa đóng lạnh lùng.
Vài tiếng gà gáy lạc lõng thay tiếng ê a con trẻ. Lăng Cô trở thành phế tích, cỏ dại nghịch ngợm leo cả lên bệ thở ngồi chễm chệ.
Thần thánh cũng ngại xói lở mà bỏ đi hết chăng "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (linh do ta, không linh cũng do ta)
Vùng cựu địa địa Ngạn còn lại vài ngôi cổ miếu u trầm, lưu dấu tích một thời tụ cư.
Miếu Thổ thần Nam Ngạn đư­ợc xây dựng trư­ớc năm 1913, nay còn ba gian thờ và tấm hoành  phi:
 徳 其 盛 矣
Tuế thứ Quý Sửu niên, quý hạ
Cẩm Phô Trung Châu ấp, Trung Tín lân
Bổn lân đồng bái cúng
Đức Thịnh vậy
Năm Quý Sửu (1913) mùa hạ
Xóm Trung Tín, ấp Trung Châu, Cẩm Phô đồng bái cúng
“Bồi ở, lở đi” đó là quy luật, là kinh nghiệm cho những cư dân vùng ven sông nước.
Bâng khuâng trước cảnh đời dâu bể. Sao cứ chập chờn nỗi niềm quá khứ xa xăm.

Cẩm Nam có cồn chùa là Xuyên Trung với Xuyên Trung Cổ Tự, có Cồn đình là Trung Tín với đình Cẩm Phô đầu tiên, có cồn hến là khu đất bồi cuối Hà Trung và cồn tàu nằm giữa sông Thu là nơi người Hà Lan làm nơi sửa chữa tàu thuyền với kho dầu là trại Tây Hồ ngày sau. 
Xa xa là cồn tàu Hà Lan






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét