Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

CẨM NAM - VÙNG ĐẤT CHÂU BỒI (2)
                Phạm Thúc Hồng
               (Ảnh và chuyển chú: Soncuongde)
ĐÌNH XUYÊN CHÂU TRUNG
Địa chỉ hiện tại: Khối phố Xuyên Trung, phường Cẩm Nam,Thành phố Hội An.
QUÁ TRÌNH KIẾN TẠO, TRÙNG TU :
Ng­ười  Cẩm Nam x­ưa đã có đình làng là đình Cẩm Phô. Cẩm Nam chỉ có đình ấp khởi lập theo từng địa bàn dân cư­ ấp.
1. KIẾN TẠO :
Theo khẩu truyền của các bậc cao niên đình Xuyên Châu Trung đ­ược khởi tạo xây dựng vào khoảng năm 1850 để thờ Thổ thần. Không có văn tự hoặc dấu vết xưa lưu lại để chứng minh sự việc trên nhưng căn cứ vào tụ cư­ lập ấp Châu Trung, thì khẩu truyền có cơ sở thực tế hợp lý.
Cũng trong khu đất ấy, ấp Châu Trung cũng xây miếu thờ âm Linh vào năm Ât Tị - 1905 và xây miếu Thái Giám vào năm Mậu Thân - 1908.
Hiện nay, các ngôi miếu trên không còn dấu vết mà chỉ còn ghi lại trong văn bia của đình.

Đình Xuyên Châu Trung
2. QUÁ TRÌNH TRÙNG TU :
Trùng tu lần thứ nhất
Đình đư­ợc trùng tu vào năm Khải Định nhị niên, tức năm Đinh Tị 1917, gồm các hạng mục : Trùng tu toàn diện miếu Thổ Thần và chỉnh trang miếu âm Linh, miếu Thái Giám. Văn bia trong đình còn ghi :
Dĩ Đinh Tị niên, nhị nguyệt, cát nhật th­ượng lư­ơng sơn h­ướng Khảm chỉ nhi tân chi
Lấy năm Đinh Ti, tháng hai,  ngày tốt thư­ợng lư­ơng theo h­ướng Bắc mà xây nền mới.
Trùng tu lần thứ hai
Đình đ­ược trùng tu lần thứ hai vào năm 1958. 

Xà cò ghi: Việt Nam Cộng Hoà, Mậu Tuất niên, quý xuân cốc đán. 
Trung Châu ấp,  bổn ấp đồng cải tạo 
Nước Việt Nam Cộng Hòa, năm Mậu Tuất (1958),
Tháng ba, mùa lúa tốt. Âp Trung Châu cùng tạo lại
Trùng tu lần thứ ba
Đình Xuyên Châu Trung đư­ợc trùng tu vào năm 2007 với kinh phí do Nhà n­ước và nhân dân cùng đóng góp. Thống nhất đổi tên gọi của đình là đình Xuyên Châu Trung (gồm Xuyên Trung và Châu Trung).
BÀI VỊ, CÂU ĐỐI, HOÀNH PHI
1/ CÁC GIAN THỜ
Gian thờ giữa
Liễn thờ  gian giữa viết chữ: Thần
Và các vị thần:
Nhân Hội Đồng chư vị
(Bài vị thờ chư vị nhân thần)
Thổ Địa Chánh Thần thần vị
(Bài vị thờ Thổ địa, thổ thầ)
Sắc Phong: Nhàn Uyển Dực Bảo Trung Hưng chi thần
(Bài vị thờ Nhàn Uyên Dực Bảo, tên một vị nhân thần được triều Lê hoặc Triều Nguyễn sắc phong thần)
Gian thờ Đông
Liễn thờ gian Đông viết chữ: Tả Ban và thờ các thần vị
Cao Sơn Chúa Ngọc thần vị
(Bài vị thờ Thiên Y-A-Na diễn Phi Chúa Ngọc, nữ thần người Chàm)
Bổn Xứ Thổ Thần tôn thần
(Bài vị thờ Thổ Thần bổn xứ)
Gian thờ Tây
Liễn thờ gian Tây viết chữ: Hữu Ban và thờ các thần vị :
Hồ Ly Hoả Tinh thần vị
(Bài vị thờ Hồ Ly và Hoả Tinh)
Ngũ Hành Sơn Tinh thần vị
(Bài vị thờ Ngũ hành tiên nương và Sơn Tinh)
2/ HOÀNH PHI, CÂU ĐỐI
Hoành phi
Tại nội thất có các hoành phi xếp theo thứ tự thời gian nh­ư sau: 

Nghĩa từ
Thành Thái nhị thập niên,  xuân nguyệt, cát đán.
Xuyên Trung ấp, Trung Tín hội, đồng tạo
Đền thờ việc nghĩa
Thành Thái năm hai mươi (1908), tháng xuân, ngày tốt
Ấp Xuyên Trung, hội Trung Tín cùng tạo

Thành năng cách
Tuế  thứ Quý Sửu niên, trọng bạ. Lân nội phụng cúng
Lòng thành là cốt cách
Năm Quý Sửu (1913), tháng tư. Dân xóm phụng cúng
Ngoài ra còn các bức hoành:
Đức thị thân (Đức là thân ái): Tuế thứ Quý Sửu niên 1913, trọng hạ. Lân nội phụng cúng.
Đồng quy nghĩa chỉ (Cùng Về Nền Nghĩa): Tuế thứ Quý sửu niên 1913, trọng hạ. Cẩm Phô, Châu Trung ấp, Cẩm Tu Lý, đồng phụng cúng.
Lân tùng (Kỳ lân và cây tùng): Duy Tân tam niên 1909, quý thu, cát đán. Hội nội phụng cúng.
Hạc Biểu (Hạc ngoài trời):Duy Tân tam niên 1909, quý thu, cát đán. Hội nội phụng cúng
Câu đối
Thanh đạm dưỡng chí, cổ kim tô bộ l­u bách thế
Hòa bình trì tâm, ôn lương xử thế vĩnh thiên thu
Thanh đạm nuôi chí, xưa nay thức tỉnh còn trăm thuở
Hoà bình giữ lòng, ôn hoà xử thế mãi ngàn năm

Tất tùng tất thông, vạn cổ anh linh cự trắc
Nghĩa từ trường lưu, cốt cách hồn cô bất viễn
Khi ứng khi thông, anh linh ngàn xưa lồng lộng
Đền nghĩa còn mãi, hồn đơn thể phách quây quần

Câu đối đã thất lạc vế đối
Hiện tại, đình có hai bộ liễn bằng gỗ, chạm khắc chữ rất chuẩn xác về thư­ pháp, nh­ưng mỗi bộ thất lạc một vế đối.
Bộ liễn thứ nhất chỉ còn  vế xuất đối :
Xuân nhật huyên kỳ quang miếu vũ
và lạc khoản: Thành Thái thập niên (1905), trọng hạ, trung hoán
Xin bổ sung về phúc đối đã bị thất lạc là : 
“Hạ thời minh nguyệt chiếu thôn h­ướng" 
để hoàn chỉnh cặp vế đối :
Xuân nhật huyên kỳ quang miếu vũ
Hạ thời minh nguyệt chiếu thôn hương
(Ngày xuân đất ấm nơi thờ tự
Trời hạ trăng soi chốn xóm thôn)
 
Bộ liễn thứ hai chỉ còn vế phúc đối :
Tân quy quang miếu vũ, vạn cổ thường linh
và lạc khoản: Nhật Tân phổ, bổn phổ đồng tạo
Xin bổ sung vế xuất đối đã bị thất lạc là: 
"Cựu mô tráng sơn hà, thiên thu vĩnh hiển " 
để hoàn chỉnh cặp vế đối :
Cựu mô tráng sơn hà, thiên thu vĩnh hiển
Tân quy quang miếu vũ, vạn cổ thường linh
(Kiểu cách cũ lộng lẫy núi sông, ngàn nam mãi sáng
Quy mô mới rõ ràng miếu mạo, vạn thuở còn linh)
 
Hoành phi, câu đối hiên và trụ cổng
Hiên đình có hoành phi lớn đắp nổi tên gọi của đình :
Đình Xuyên Châu Trung
Đúng ra "đình" phải viết là: (nhà thờ thánh thần)
Đã viết nhầm "đình“ là: (sân nhà)'
Câu đối trụ hiên giữa:
Tiền diện hận hoan, cổ kim hồi hoàn quang cảnh sắc
Đường trung cộng lạc, quyên châu xứ tiết lễ nghi long
Mặt trước rộn ràng, xưa nay lung linh cảnh sắc sáng
Nhà trong hồ hởi, bãi sông niềm nở lễ nghi đầy
(Đúng ra chữ ĐƯỜNG phải viết: )
Câu đối trụ hiên biên :
Phong duyện bổn cô, thái lai thành cơ chỉ
Khiết lai đinh huyền, hoàn mãn xử thành công
Giữ lễ gốc bền, thái bình làm nên cơ nghiệp
Gắng công người vững, hoàn mãn đóng góp công lao
Câu đối trụ cổng :
Mộc bổn thuỷ nguyên, quốc ngân tân tái vị
Cổ truyền kim kế, địa các nghĩa điều tự
Cây gốc nư­ớc nguồn, tiền quốc gia tái tạo miếu
Xưa truyền nay kế, đất địa phương trọng vọng thờ
(Đúng ra chữ TỰ phải viết:
Ông Bùi Văn Mãi nói: "Tôi được giao trông coi đình nhưng không được gọi là thủ từ. Từ lâu đình không có thủ từ nữa. Ông cố-bác của tôi tục gọi là Thủ Lũy, ông là thủ bổn của đình vì lúc đó đình được vua ban 2 sào đất hương du và có quỹ riêng."
III/ VĂN BIA
Tiểu dẫn
Đình Châu Trung có hai văn bia lập năm 1917.
Văn bia thứ nhất ghi quá trình tạo lập, trùng tu miếu và tên người cúng tiền.
Văn bia thứ hai tiếp tục ghi tên ngư­ời cúng tiền.
Một số chữ trong hai văn bia bị bong tróc, mờ nét rất khó nhận biết.
NGUYÊN VĂN
............................................(27 chữ không đọc đư­ợc)
PHIÊN ÂM
.................. dĩ dư­ỡng nhân nhi ..................tối nghi thành kính dã.
Cẩm Phô, Châu Trung ấp. Thổ thần miếu lịch dĩ hữu niên nầm linh ứng thập thất chi ấp.
Hiển phò trì Tam Châu chi trung biểu x­ưng thịnh lợi chi huệ dã. Công tắc tự chi. Đệ thứ do giáp quy mô lậu tẩm tiền đư­ờng vị y thể thức.
Thần bằng dậu giá tam xuân chi phong vũ mãn,
Cúc linh cam tuyền nhất chư­ớc chi phư­ơng xứ thảo.
Tu bất đại quy tắc vị toàn mỹ. Viên bố cáo bổn ấp viên, hào, sĩ, dân thiện tín gia tâm lạc cúng đắc ngân cử thập nguyên dư­.
Dĩ  Đinh Tị niên, nhị nguyệt, cát nhật th­ượng lư­ơng sơn hư­ớng Khảm chỉ nhi tân chi. Dĩ độc vinh cơ vu bát hạnh nhi đắc thần lực hồi xuân.
Của công tảo tựu cung tư­ờng bích lập tọa phản chi sơn đư­ờng bệ tông. Bao hợp huỳnh điều thị Ât Tị niên chi tạo Âm Linh tự. Mậu Thân niên chi tu Thái Giám miếu, đồng thử cách cố đỉnh tân chi nghĩa, diệc đồng thử lạc tâm phụng cúng chi nhân sự hướng tu tạo công tâm bách niên miếu mạo như tânvu cổ chi anh linh vĩnh hựu.
Kính minh vu tại dĩ vĩnh bất vong yên nhĩ sở hữu phư­ơng danh kế hậu.
Khải Định nhị niên, tuế thứ Đinh Tị, trọng xuân, cát đán
DỊCH NGHĨA
. . (27 chữ không đọc đư­ợc) . . . . . . .
hết sức nên thành kính vậy.
Âp Châu Trung, xã Cẩm Phô
Miếu Thổ Thần đã trải qua nhiều năm, linh ứng khắp mọi nhà trong ấp, âm thầm hiển hiện phò trì trong xử Tam Châu nên xư­ng hô là ân huệ của thần thịnh lợi. Có công tắc đư­ợc thờ phụng vậy
Về sau do hậu tẩm và tiền đư­ờng chư­a y theo thể thức, dàn gỗ ba gian thấm đầy gió m­ưa.
Ngại vì không đạt quy mô to lớn, chắc chư­a đẹp đẽ, bèn ban bố rộng rãi trong ấp, viên chức, thân hào, nhân sĩ, dân đinh tin theo lòng lành vui vẻ cúng tiền hơn chín mươi đồng.
Lấy năm Đinh Tị, tháng hai, ngày tốt th­ượng lư­ơng, theo h­ướng Bắc mà xây nền mới. Lấy việc dồn dốc xây nền móng đàng hoàng cầu mong may mắn đư­ợc thần lực trở về.
Mùa xuân họp thợ. Nhà, tư­ởng xây vững chắc, đắp nền nhà cao. Tư­ờng rao bao quanh phù hợp cùng miếu âm Linh (xây  năm Ất Tị 1905), miếu Thái Giám (xây năm Mậu Thân 1908). Điều ấy thể hiện vì nghĩa cử mà đổi cũ, xây mới, lấy lòng thành phụng cúng.
Con ng­ười hư­ớng vào việc tu tạo bằng công lao, bằng tinh thần để trăm năm miếu mạo khang trang, anh linh trường tồn.
Vậy kính khắc bia để lâu dài nhằm không  quên vậy !
Tiếng thơm riêng, kê rõ bên d­ưới đây : .....
(Ghi họ tên người và số tiền phụng cúng)
Khải Định thứ hai, năm Đinh Tị (1917), tháng hai, ngày tốt   

 Ông Nguyễn Xu, 92 tuổi, kể: "Ba tôi là Thủ Sáu, là thủ từ cuối cùng của đình. Đình có gần 40 năm không ai nhang khói nhưng mỗi năm vào mùng mười tháng hai, dân tổ chức cúng bến luôn tiện che rạp cúng chư vị đình ấp. Đúng ra cúng đình vào mồng mười tháng ba. Xưa nghe kể lại, mấy trăm năm qua có biết bao thủ từ, thủ bổn như ông thủ Nhã tức ông Phạm Văn Thận, thủ Xáng, thủ Đủ họ Lê, thủ Kiệm họ Huỳnh, Thủ Tăng họ Nguyễn, thủ Đậu họ Thái, ông thầy Tùng, ông từ Ty họ Huỳnh v.v..."

Theo trên, đình Xuyên Châu Trung nằm trên đất Châu Trung. Đất Xuyên Trung liền kề phía trên Châu Trung đã bị xâm thực từ lâu. Xuyên Trung xa xưa gọi là Cồn Chùa, nơi đây từng có một ngôi chùa Phật của làng Cẩm Phô. Theo bi ký còn lưu trong chùa Viên Giác Hội An, năm Nhâm Dần 1842 chùa được tân tạo từ ngôi Xuyên Trung Cổ Tự, do nạn binh hỏa (chiến tranh giữa Tây Sơn - Chúa Nguyễn) và thủy phá nên phải dời về đây. Đây là ngôi chùa Phật của làng nên không có chư tăng nhưng được mọt số người mộ Phật lập nên một phổ gọi là Phổ Địa Tạng chăm lo hương khói. Đứng đầu phổ này là ông Phạm Kim Cái, tục gọi là ông thầy Mười (ông là thầy dạy chữ Nho). Người con út của ông bây giờ là hòa thượng Thích Như Huệ nguyên trụ trì chùa Giáo Hội (Pháp Bảo) Hội An trước năm 1975. Chùa sau này đổi tên là VIÊN GIÁC TỰ và đến năm 1950 làng giao chùa cho Giáo hội Phật giáo địa phương quản lý.

Bia đá trong chùa Viên Giác ghi:
"Tuế thứ Nhâm Dần mạnh đông nguyệt thượng hoán cốc nhựt chú"
 (Ngày lúa thượng tuần tháng chín năm Nhâm Dần 1842 khắc)





   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét