Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010

VÀI HÌNH ẢNH KHÁC (3)


DƯƠNG THƯƠNG HỘI QUÁN
THIÊN HẬU CUNG: Chánh điện thờ Bà THIÊN HẬU THÁNH MẪU trong chùa Ngũ Bang.
Xa xưa chùa Ngũ Bang là... DƯƠNG THƯƠNG HỘI QUÁN, sau đó giao cho người bang Gia Ứng đại diện trông coi. Người Gia Ứng không có tiền lập chùa miếu nên cũng không có Hội quán cho riêng mình.

Phố cổ Hội An ở miền trung Việt Nam đã trở thành di sản của văn hóa thế giới. Trong nội thành các chùa chiền tông miếu hội quán người Hoa mang sắc thái cổ xưa.

Trước khi người Pháp xây dựng quốc lộ, đường sắt nam bắc, và cảng Đà Nẵng, Hội An nhờ dựa vào giao thông đường sông nhanh chóng và ưu thế về vị trí địa lý đặc biệt của mình nên trở thành cửa ngõ cho quan hệ đối ngoại, trở thành một thương cảng phồn hoa, và từ đây cũng xây dựng nên nhiều chùa chiền tông miếu hội quán người Hoa mang sắc thái đặc trưng. Năm Khang Hi thứ 34 (1695) triều Thanh, vào tháng 2, hòa thượng Thạch Liêm (hiệu Đại Tiên) có đến Hội An và ở lại hơn một năm. Trong cuốn sách “Hải ngoại ký sự”của mình có viết: ”thương cảng Hội An có nhiều hàng hóa và khách khứa từ các nước, một con đường thẳng ven sông dài khoảng 3-4 dặm, có tên là Đại Đường (vua Minh Mạng năm 1826 đổi tên thành Tây hương lộ) (nay là đường Cường Để), hai bên đường các hàng quán nhà cửa nối tiếp nhau, đều là người Phiên (Quảng Đông, Quảng Tây, Triều Châu, Hải Nam, Hẹ), người Mân (Phước Kiến, Hẹ) sinh sống…”.

Hội quán người Hoa được xây dựng sớm nhất tại Hội An là Trung Hoa Hội Quán, tương truyền được xây dựng vào triều Minh thời kỳ vua Thành Hóa (1465-1487), năm 1741 có tên gọi là: “Dương Thương Hội Quán” cũng từng gọi là “Giang Triết hội quán”, bên trong hội quán có ba tấm bia đá có văn tự ghi chép.

Tấm bia thứ nhất được ghi chép vào triều Thanh vua Càng Long năm thứ 6 (1741), do các thuyền trưởng ,các thương nhân lập nên, ghi lại hội quán xuất xứ từ đâu: ”việc xây dựng hội quán này, do đã có từ lâu rồi, tuy gọi nơi này là hội đồng nghị sự, thực ra chỉ là nơi bàn tán các lễ nghi và quan hệ” .

Tấm bia thứ hai được dựng lên vào triều Thanh vua Hàm Phong năm thứ 5 (1855) ghi chép lại việc trùng tu cửa chánh.

Tấm thứ ba vào năm 1928 ghi lại việc đổi tên thành Trung Hoa hội quán, trong bia đá có đề cập đến bảo vật của hội quán, đó là cái đỉnh sắt 500 năm tuổi.


DI CHÚC CỦA ÔNG TÔN VĂN

Đắp nổi trên tường sau điện chùa Bà


CỔNG VÀ NGÕ
Của nhà thờ tộc Trần Minh Hương (phân biệt với nhà thờ tộc Trần Hội An) trong kiệt Âm Hồn

Cổng


Ngõ... hạnh

MIẾU ÂM HỒN
Sân trước miếu Âm Hồn


CHÙA QUẢNG TRIỆU
Chùa nhìn ra bờ sông An Hội

Nghe kể rằng, trước khi xây chùa người Quảng Đông có mời thầy địa từ Trung Hoa qua xem thế đất và đã nói rằng: "Khi nào có trâu ăn cỏ trước chùa là công cuộc làm ăn bắt đầu lụn bại".
Sau đó khi cồn đất An Hội được bồi lên thì đa phần người Quảng Đông bỏ Hội An vào nam lập nghiệp.
Phần đất An Hội được bồi thêm trong vòng mười năm nay


Cầu An Hội cũ - phía sau còn xóm nhà chồ


Cầu An Hội mới


Cầu Cẩm Nam
Bên kia cầu là vùng đất kỳ lạ. Nghe kể rằng thuở xa xưa, nhà có con gái lấy chồng thì cha mẹ phải theo con gái đến nhà trai cùng một lúc, gọi là gả - bán, nếu không thì "tụi nó" sẽ NỬA ĐƯỜNG GÃY GÁNH. Tục này bây giờ không còn nữa.


Cầu Làng Câu:
Chốn em ở hình như... Cửa Đại
Nơi dốc cầu lươn lẹo bò qua

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét